Theo một truyền thuyết đã được ghi lại trên giấy vào năm 1671: Vào thế kỷ thứ IX, những người chăn dê ở Kaffa (thuộc Ethiopia ngày nay) phát hiện ra một số con dê trong đàn sau khi ăn một cành cây có hoa trắng và quả màu đỏ đã chạy nhảy không mệt mỏi cho đến tận đêm khuya.
Họ bèn đem chuyện này kể với các thầy tu tại một tu viện gần đó. Khi một người chăn dê trong số đó ăn thử loại quả màu đỏ đó anh ta đã xác nhận công hiệu của nó.
Sau đó các thầy tu đã đi xem xét lại khu vực ăn cỏ của bầy dê và phát hiện ra một loại cây có lá xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Họ uống nước ép ra từ loại quả đó và tỉnh táo cầu nguyện chuyện trò cho đến tận đêm khuya.
Sau đó các thầy tu đã đi xem xét lại khu vực ăn cỏ của bầy dê và phát hiện ra một loại cây có lá xanh thẫm và quả giống như quả anh đào. Họ uống nước ép ra từ loại quả đó và tỉnh táo cầu nguyện chuyện trò cho đến tận đêm khuya.
Hạt cà phê được lấy từ hạt của các loài cây thuộc họ cà phê (Rubiaceae). Ba dòng cây cà phê chính là:
• Coffea arabica (Cà phê Arabica) – cà phê chè.
• Coffea canephora (Cà phê Robusta) – cà phê vối.
• Coffea excelsa (Cà phê Liberia) – cà phê mít.
![]() |
Family tree Nguồn: Cafe Imports |
1/ Cà phê Arabica: Ưa sống ở vùng núi cao. Arabica thường được trồng ở độ cao từ 1000 – 1500m. Cây có tán lớn, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây cà phê trưởng thành có thể cao từ 4 – 6m, nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 15m. Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai hạt. Arabica có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê.
Mặc dù có rất nhiều giống cà phê Arabica, Typica và Bourbon được biết đến như những giống đầu tiên. Các giống khác chỉ được cho là con lai của hai giống này.
Typica – Đây là giống cây căn bản mà từ đó rất nhiều loại giống khác có thể được tạo ra. Cũng như các loại giống Arabica khác, Typica có hình nón với một thân chính mọc thẳng và nhiều thân phụ mọc xiên. Typica cao tới 3.5 đến 4 mét.
Cành cây làm thành những góc từ 50 – 70 độ so với thân thẳng của cây. Typica có năng suất rất thấp nhưng lại cho ra loại cà phê có chất lượng tuyệt vời.
Bourbon – Bourbon là giống cho ít cà phê nhất trong tất cả. Bourbon không mang hình nón rõ ràng như Typica, nhưng lại phân cành nhiều hơn. Góc giữa cành và thân nhỏ hơn, và khoảng cách giữa gốc của các cành trên thân rất nhỏ. Lá cây rộng và xoăn ở rìa.
Quả của cây thường nhỏ và khá nặng. Quả thường chín rất nhanh và dễ rụng khi có gió hoặc mưa to. Giống này cho kết quả tốt nhất ở độ cao 1.000 đến 2.000m. Chất lượng cà phê cũng rất tuyệt giống như Typica.
Caturra – Là giống đột biến của Bourbon, được phát hiện ở Brazil. Giống này cho năng suất cao và chất lượng tốt, tuy nhiên cần được chăm sóc và bón phân cẩn thận. Caturra có thân ngắn và dày, phân cành rất nhiều. Lá của nó to và xoăn ở rìa giống như Bourbon. Caturra thích hợp với nhiều môi trường, nhưng phát triển tốt nhất ở độ cao 600 đến 1.500m với lượng mưa hàng năm từ 2500 đến 3500 mm. Ở độ cao lớn hơn thì chất lượng sẽ cao hơn, tuy nhiên năng suất sẽ giảm.
Mundo Novo – Là giống lai tự nhiên giữa Typica và Bourbon, được tìm thấy ở Brazil. Cây loại này khỏe và có khả năng chịu bệnh tốt. Mundo Novo có năng suất cao nhưng thời gian trồng lâu hơn các giống khác.
Giống này thích hợp với độ cao từ 1.000 đến1.500m, với lượng mưa từ1200 đến 1800 mm.
Catuai – Là loại cho năng suất cao, kết quả lai giữa Mundo Novo và Caturra. Cây loại này nhỏ, các cành bên thường rất sát với các cành chính. Quả của loại cây này không dễ rụng, thích hợp với những vùng hay có gió hoặc mưa to. Catuai cũng cần được chăm sóc và bón phân đầy đủ.
Pache Commum – Pache commum là đột biến của Typica, lần đầu tiên được tìm thấy ở trang trại El Brito, Santacruz Naranjo, Santa Rosa, Guatemala. Cà phê loại này được đánh giá là có vị dịu và thanh. Pache comum thích hợp với độ cao 1.000 đến 1.500m.
Catimor – Được tạo ra ở Bồ Đào Nha năm 1959, Catimor là giống lai giữa Timor và Caturra. Cây trưởng thành sớm và cho năng suất cao, thường là bằng hoặc hơn các loại giống thương mại khác. Chính vì đặc điểm này mà qua trình bón phân và trồng bóng cần được điều chỉnh kĩ lưỡng.
Kent – Là giống cho năng suất cao và có khả năng chống chịu với bệnh rỉ sắt.
Maragogype – Là giống đột biến của Typica được tìm thấy ở Brazil. Cây thuộc giống này thường cao và to hơn so với các giống Bourbon và Typica. Năng suất của cây thấp, nhưng bù lại cho hạt to. Cây loại này phát triển tốt nhất ở độ cao 2000 đến 2500 m.
Blue Mountain – Là loại giống khá nổi tiếng, được ưa chuộng bởi khả năng chống chịu bệnh nấm quả (Coffee Berry disease) và khả năng phát triển mạnh ở độ cao lớn. Loại này được trồng ở Jamaica và Kona, Hawaii. Tuy nhiên, loại cây này không thích hợp với nhiều loại khí hậu. Sự thay đổi khí hậu có thể làm hương vị bị thay đổi.
2/ Cà phê Robusta – Là cây quan trọng thứ hai trong các loài cà phê. Khoảng 39% các sản phẩm cà phê được sản xuất từ loại cà phê này. Cây cà phê vối có dạng cây gỗ hoặc cây bụi, chiều cao của cây trưởng thành có thể lên tới 10 m. Quả cà phê có hình tròn, hạt nhỏ hơn hạt cà phê chè (cà phê arabica). Hàm lượng caffein trong hạt cà phê vối khoảng 2-4%, trong khi ở cà phê chè chỉ khoảng 1-2%. Cà phê vối ưa sống ở vùng nhiệt đới, độ cao thích hợp để trồng cây là dưới 800 m. Nhiệt độ ưa thích của cây khoảng 24-29°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm. Cây cà phê vối cần nhiều ánh sáng mặt trời hơn so với cây cà phê chè. Hạt Robusta nhỏ hơn Arabica, vị đắng hậu vị chiếm chủ yếu.
Sưu tầm từ nhiều nguồn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét